BÀI THU HOẠCH NHẬN THỨC VỀ NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XI CỦA ĐẢNG
Sat Aug 27, 2011 9:13 pm
duongnganvy
Tiêu đề: BÀI THU HOẠCH NHẬN THỨC VỀ NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XI CỦA ĐẢNG
BÀI THU HOẠCH
NHẬN THỨC VỀ NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XI CỦA ĐẢNG NHIỆM KỲ 2011 – 2016
Sau khi được học tập, tiếp thu và nghiên cứu Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI, nhiệm kỳ 2011 – 2016, tôi đã nhận thức được các nội dung cơ bản sau:
Câu 1:
1. Những nội dung cơ bản của cương lĩnh gồm 4 phần như sau:
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) - gọi tắt là Cương lĩnh 2011 về cơ bản giữ lại những nội dung quan trọng của Cương lĩnh 1991 mà cho đến nay qua sự kiểm nghiệm của thời gian chúng ta thấy vẫn còn nguyên giá trị. Chúng ta bổ sung và phát triển thêm nhiều nội dung mới mà những nội dung ấy phải đảm bảo được nguyên tắc: Một là, đây là những nội dung cho đến nay đã rõ, đã thống nhất, đã được kiểm nghiệm trong thực tiễn, đã được thể hiện, được khẳng định trong nghị quyết các Đại hội, các Hội nghị Trung ương; Hai là, không đưa vào Cương lĩnh 2011 những nội dung chưa rõ, chưa được nhận thức, chưa được khẳng định tính đúng đắn trong thực tiễn.
Cương lĩnh 2011 cơ bản giữ kết cấu tổng thể của Cương lĩnh 1991. Có 4 phần lớn: Phần thứ nhất, quá trình cách mạng Việt Nam và những bài học kinh nghiệm; phần thứ hai, thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở nước ta; phần thứ ba, những định hướng lớn về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; phần thứ tư, về hệ thống chính trị và sự lãnh đạo của Đảng. Đây là 4 phần được kết cấu rất chặt chẽ; phần đầu là chuẩn bị và mở ra cho phần tiếp theo; phần tiếp theo là cụ thể hóa những nội dung của phần trước đó.
- Phần thứ nhất:
Quá trình cách mạng và những bài học kinh nghiệm lớn.
- Phần thứ hai:
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta:
- Phần thứ ba:
Những định hướng lớn về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại.
- Phần thứ tư:
Hệ thống chính trị và vai trò lãnh đạo của Đảng.
2. Chiến lược phát triển kinh tế, xã hội giai đoạn 2011 – 2020:
I- TÌNH HÌNH ĐẤT NƯỚC VÀ BỐI CẢNH QUỐC TẾ.
1. Tình hình đất nước.
Trong 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2001-2010, chúng ta đã tranh thủ thời cơ, thuận lợi, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, nhất là những tác động tiêu cực của hai cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực và toàn cầu, đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng, đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Nhiều mục tiêu chủ yếu của Chiến lược 2001-2010 đã được thực hiện, đạt bước phát triển mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất. Kinh tế tăng trưởng nhanh, đạt tốc độ bình quân 7,26%/năm.
2. Bối cảnh quốc tế.
Nước ta bước vào thời kỳ chiến lược mới trong bối cảnh thế giới đang thay đổi rất nhanh, phức tạp và khó lường. Trong thập niên tới, hòa bình, hợp tác và phát triển tiếp tục là xu thế lớn, nhưng xung đột sắc tộc và tôn giáo, tranh giành tài nguyên và lãnh thổ, nạn khủng bố và tội phạm xuyên quốc gia có thể gia tăng cùng với những vấn đề toàn cầu khác như đói nghèo, dịch bệnh, biến đổi khí hậu, các thảm họa thiên nhiên... buộc các quốc gia phải có chính sách đối phó và phối hợp hành động.
II- QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN: (gồm 5 quan điểm)
1. Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược.
2. Đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
3. Mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người; coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển.
4. Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học, công nghệ ngày càng cao; đồng thời hoàn thiện quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
5. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
III/ Mục tiêu chiến lược và khâu đột phá
1. Mục tiêu tổng quát
Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị - xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau.
2. Mục tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường
a) Về kinh tế
Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân 7 - 8%/năm. GDP năm 2020 theo giá so sánh bằng khoảng 2,2 lần so với năm 2010; GDP bình quân đầu người theo giá thực tế đạt khoảng 3.000 USD.
Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô. Xây dựng cơ cấu kinh tế công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ hiện đại, hiệu quả. Tỉ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 85% trong GDP. Giá trị sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ cao đạt khoảng 45% trong tổng GDP. Giá trị sản phẩm công nghiệp chế tạo chiếm khoảng 40% trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp. Nông nghiệp có bước phát triển theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững, nhiều sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động; tỉ lệ lao động nông nghiệp khoảng 30 - 35% lao động xã hội.
Yếu tố năng suất tổng hợp đóng góp vào tăng trưởng đạt khoảng 35%; giảm tiêu hao năng lượng tính trên GDP 2,5 - 3%/năm. Thực hành tiết kiệm trong sử dụng mọi nguồn lực.
Kết cấu hạ tầng tương đối đồng bộ, với một số công trình hiện đại. Tỉ lệ đô thị hóa đạt trên 45%. Số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới khoảng 50%.
b) Về văn hóa, xã hội
Xây dựng xã hội dân chủ, kỷ cương, đồng thuận, công bằng, văn minh. Đến năm 2020, chỉ số phát triển con người (HDI) đạt nhóm trung bình cao của thế giới; tốc độ tăng dân số ổn định ở mức khoảng 1%; tuổi thọ bình quân đạt 75 tuổi; đạt 9 bác sĩ và 26 giường bệnh trên một vạn dân (1), thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân; lao động qua đào tạo đạt trên 70%, đào tạo nghề chiếm 55% tổng lao động xã hội; tỉ lệ hộ nghèo giảm bình quân 1,5 - 2%/năm; phúc lợi xã hội, an sinh xã hội và chăm sóc sức khỏe cộng đồng được bảo đảm. Thu nhập thực tế của dân cư gấp khoảng 3,5 lần so với năm 2010; thu hẹp khoảng cách thu nhập giữa các vùng và nhóm dân cư. Xóa nhà ở đơn sơ, tỉ lệ nhà ở kiên cố đạt 70%, bình quân 25 m2 sàn xây dựng nhà ở tính trên một người dân.
Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đến năm 2020, có một số lĩnh vực khoa học và công nghệ, giáo dục, y tế đạt trình độ tiên tiến, hiện đại. Số sinh viên đạt 450 trên một vạn dân.
Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; con người phát triển toàn diện về trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, ý thức công dân, tuân thủ pháp luật.
c) Về môi trường
Cải thiện chất lượng môi trường. Đến năm 2020, tỉ lệ che phủ rừng đạt 45% (2). Hầu hết dân cư thành thị và nông thôn được sử dụng nước sạch và hợp vệ sinh. Các cơ sở sản xuất kinh doanh mới thành lập phải áp dụng công nghệ sạch hoặc trang bị các thiết bị giảm ô nhiễm, xử lý chất thải; trên 80% các cơ sở sản xuất kinh doanh hiện có đạt tiêu chuẩn về môi trường. Các đô thị loại 4 trở lên và tất cả các cụm, khu công nghiệp, khu chế xuất có hệ thống xử lý nước thải tập trung. 95% chất thải rắn thông thường, 85% chất thải nguy hại và 100% chất thải y tế được xử lý đạt tiêu chuẩn. Cải thiện và phục hồi môi trường các khu vực bị ô nhiễm nặng. Hạn chế tác hại của thiên tai; chủ động ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu, nhất là nước biển dâng.
3/ Ba đột phá chiến lược
1/ Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính.
2/ Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ.
3/ Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số công trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn.
Nội dung báo cáo chính trị tại Đại hội XI của Đảng.
I. Kiểm điểm 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội X; nhìn lại 10 năm phát triển kinh tế, xã hội 2001 – 2011, 20 năm thực hiện cươg lĩnh năm 1991.
II. Tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới theo con đường XHCN; phương hướng nhiệm vụ phát triển 5 năm 2011 – 2015.
*Mục tiêu, nhiệm vụ phát triển đất nước 5 năm (2011 - 2015)
Mục tiêu tổng quát trong 5 năm tới là : Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; phát triển kinh tế nhanh, bền vững; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; giữ vững ổn định chính trị - xã hội; tăng cường hoạt động đối ngoại; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Nhiệm vụ chủ yếu :
(1) ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả, phát triển bền vững; huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; từng bước xây dựng kết cấu hạ tầng hiện đại. Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
(2) Phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực; phát triển khoa học, công nghệ và kinh tế tri thức. Tập trung giải quyết vấn đề việc làm và thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Tạo bước tiến rõ rệt về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, giảm tỉ lệ hộ nghèo; cải thiện điều kiện chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân. Tiếp tục xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Bảo vệ môi trường, chủ động phòng tránh thiên tai, ứng phó có hiệu quả với tình trạng biến đổi khí hậu.
(3) Tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; giữ vững ổn định chính trị - xã hội, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, trật tự, an toàn xã hội; ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch; mở rộng, nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế.
(4) Tiếp tục phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; hoàn thiện, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Quốc hội, Chính phủ, chính quyền địa phương; đẩy mạnh cải cách hành chính và cải cách tư pháp; thực hiện có hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
(5) Đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thường xuyên "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh"; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Phấn đấu đạt được các chỉ tiêu chủ yếu :
Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm 2011 - 2015 : 7,0 - 7,5%/năm. Năm 2015, GDP bình quân đầu người khoảng 2.000 USD; cơ cấu GDP : nông nghiệp 17 - 18%, công nghiệp và xây dựng 41 - 42%, dịch vụ 41 - 42%; sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ cao đạt 35% tổng GDP; tỉ lệ lao động qua đào tạo đạt 55%. Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân 12%/năm, giảm nhập siêu, phấn đấu đến năm 2020 cân bằng được xuất nhập khẩu. Vốn đầu tư toàn xã hội bình quân 5 năm đạt 40% GDP. Tỉ lệ huy động vào ngân sách nhà nước đạt 23 - 24% GDP; giảm mức bội chi ngân sách xuống 4,5% GDP vào năm 2015. Giải quyết việc làm cho 8 triệu lao động. Tốc độ tăng dân số đến năm 2015 khoảng 1%. Tuổi thọ trung bình năm 2015 đạt 74 tuổi. Tỉ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới giảm bình quân 2%/năm. Tỉ lệ che phủ rừng năm 2015 đạt 42 - 43%.../.
III. Đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh CNH, HĐH, phát triển nhanh , bền vững.
IV. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN.
V. Phát triển GD&ĐT, KH và CN, kinh tế và tri thức; bảo vệ môi trường.
VI. Chăm lo phát triển văn hóa.
VII. Thực hiện có hiệu quả , tiến bộ và công bằng xã hội.
VIII. Tăng cường Quốc phòng An ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
IX. Triển khai đồng bộ toan diện hoạt động đối ngoại.
X. Phát huy dân chủ XHCN và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
XI. Đẩy mạnh xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
XII. Xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Câu 2: Những vấn đề mới được bổ sung, sửa đổi trong điều lệ Đảng ở Đại hội XI.
điểm và nguyên tắc cơ bản là: Những nội dung nào được quy định trong Ðiều lệ Ðảng qua thực tiễn hoạt động vẫn đúng và phù hợp thực tiễn thì giữ nguyên; những nội dung nào quy định trong Ðiều lệ Ðảng nhưng qua hoạt động thực tiễn thấy không còn phù hợp hoặc chưa rõ, việc thực hiện khó khăn, thiếu thống nhất thì phải bỏ hoặc sửa đổi cho phù hợp; những vấn đề nào chưa được quy định trong Ðiều lệ Ðảng nhưng thực tiễn của công tác xây dựng Ðảng đã và đang đặt ra thì phải bổ sung để thực hiện. Quán triệt các quan điểm, nguyên tắc nêu trên, Ðại hội XI của Ðảng đã thông qua toàn văn Ðiều lệ Ðảng (bổ sung, sửa đổi) ngày 19-1-2011 gồm: Phần mở đầu, 12 chương và 48 điều. Ngoài việc sửa đổi cụm từ 'giữ mối liên hệ mật thiết với nhân dân' thành 'gắn bó mật thiết với nhân dân' ở phần mở đầu, trong các điều của Ðiều lệ Ðảng có 11 nội dung mới được bổ sung, sửa đổi sau đây:
Một là, bổ sung nội dung về tiêu chuẩn đảng viên: Ðiều 1, Ðiều lệ Ðảng Ðại hội X quy định tiêu chuẩn đảng viên như sau: 'Ðảng viên Ðảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam,...'. Trên cơ sở tổng kết 25 năm thực hiện đổi mới và 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cho thấy: Người đảng viên không chỉ là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân, mà còn là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam. Do đó, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã được bổ sung thêm nội dung 'nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam'. Vì vậy, để thống nhất với tiêu chuẩn đảng viên được ghi trong Cương lĩnh và phần đầu của Ðiều lệ Ðảng, Ðiều 1, Ðiều lệ Ðảng đã được bổ sung thêm cụm từ 'nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam' và thể hiện đầy đủ như sau: 'Ðảng viên Ðảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam'.
Hai là, bổ sung nội dung về nhiệm vụ của đảng viên: Ngoài các nhiệm vụ của đảng viên được quy định tại Ðiều 2, Ðiều lệ Ðảng, Bộ Chính trị các khóa vừa qua còn có Quy định về 'Những điều đảng viên không được làm'. Trong quá trình thực hiện, có nhiều ý kiến cho rằng cần đưa nội dung những điều đảng viên không được làm vào trong Ðiều lệ Ðảng để tính pháp lý cao hơn và mọi đảng viên phải nghiêm chỉnh chấp hành. Tuy nhiên, qua thảo luận, phần lớn đại biểu đại hội cho rằng: Nếu đưa tất cả những điều đảng viên không được làm vào trong Ðiều lệ Ðảng thì Ðiều lệ Ðảng sẽ dài và khi cần phải bổ sung, sửa đổi thì phải chờ đến Ðại hội Ðảng toàn quốc. Do đó, Ðiều lệ Ðảng chỉ nên ghi một câu chung là: đảng viên phải 'Chấp hành quy định của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm', còn nội dung cụ thể thì Ban Chấp hành Trung ương giao cho Bộ Chính trị xem xét, quyết định cho phù hợp. Vì vậy, Ðiều 2, Ðiều lệ Ðảng đã bổ sung thêm nội dung về nhiệm vụ của đảng viên là: đảng viên phải 'Chấp hành quy định của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm'.
Ba là, bổ sung, sửa đổi về việc thành lập tổ chức cơ sở đảng:
Ðiều 21, Ðiều lệ Ðảng Ðại hội X quy định: 'Ở xã, phường, thị trấn, cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp, đơn vị cơ sở trong quân đội, công an và các đơn vị cơ sở khác có từ ba đảng viên chính thức trở lên, lập tổ chức cơ sở đảng'. Trong thực tế của công tác xây dựng Ðảng thời gian qua cho thấy: Cùng với sự phát triển của công cuộc đổi mới đất nước, có rất nhiều đơn vị cơ sở thuộc các loại hình được thành lập mới hoặc chia tách, sáp nhập..., nếu đơn vị nào cứ có đủ từ ba đảng viên chính thức trở lên đều thành lập tổ chức cơ sở đảng và trực thuộc cấp ủy cấp huyện thì cấp ủy huyện, quận và tương đương sẽ có rất nhiều tổ chức cơ sở đảng trực thuộc, việc theo dõi, quản lý và phân bổ đại biểu dự đại hội đại biểu đảng bộ cấp mình có rất nhiều khó khăn, phức tạp. Vì vậy, Ðiều 21, Ðiều lệ Ðảng đã được bổ sung và sửa đổi để phù hợp với yêu cầu của thực tiễn như sau: 'Ở xã, phường, thị trấn có từ ba đảng viên chính thức trở lên, lập tổ chức cơ sở đảng (trực thuộc cấp ủy cấp huyện). Ở cơ quan, doanh nghiệp, hợp tác xã, đơn vị sự nghiệp, đơn vị quân đội, công an và các đơn vị khác có từ ba đảng viên chính thức trở lên, lập tổ chức đảng (tổ chức cơ sở đảng hoặc chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở); cấp ủy cấp trên trực tiếp xem xét, quyết định tổ chức đảng đó trực thuộc cấp ủy cấp trên nào cho phù hợp; nếu chưa đủ ba đảng viên chính thức thì cấp ủy cấp trên trực tiếp giới thiệu đảng viên sinh hoạt ở tổ chức cơ sở đảng thích hợp'.
Bốn là, bổ sung sửa đổi về cách tính nhiệm kỳ đại hội của những tổ chức đảng mới thành lập, chia tách, sáp nhập... trong nhiệm kỳ ở các cấp: Ðiều 13, Ðiều lệ Ðảng Ðại hội X quy định: 'Ðối với tổ chức đảng mới thành lập, cấp ủy cấp trên trực tiếp chỉ định cấp ủy lâm thời; chậm nhất trong vòng một năm kể từ ngày có quyết định chỉ định, tổ chức đảng đó phải tiến hành đại hội; nếu kéo dài thêm thời gian phải được cấp ủy cấp trên trực tiếp đồng ý'.
Thực tiễn của công tác xây dựng Ðảng những năm qua cho thấy: Việc thành lập mới hoặc chia tách, sáp nhập các tổ chức đảng ở các cấp trong nhiệm kỳ được diễn ra thường xuyên, do đó nhiệm kỳ của những tổ chức đảng này không khớp với nhiệm kỳ của tổ chức đảng cấp trên và kéo dài từ nhiệm kỳ hiện tại sang nhiệm kỳ sau của tổ chức đảng cấp trên. Như vậy, năm nào cấp ủy cấp trên cũng phải chỉ đạo đại hội hết nhiệm kỳ của một số tổ chức đảng và trong các kỳ tiến hành đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Ðại hội đại biểu toàn quốc của Ðảng đều có một số tổ chức đảng chỉ tiến hành đại hội ba nội dung do chưa hết nhiệm kỳ. Vì vậy, Ðiều 13, Ðiều lệ Ðảng đã bổ sung, sửa đổi về nhiệm kỳ đại hội đảng ở những nơi mới thành lập, chia tách, sáp nhập... trong nhiệm kỳ đại hội ở các cấp như sau: 'Từ tổ chức cơ sở đảng đến đảng bộ trực thuộc Trung ương nếu được thành lập mới, chia tách, hợp nhất, sáp nhập trong nhiệm kỳ, thì cấp ủy cấp trên trực tiếp chỉ định cấp ủy chính thức; chỉ đạo xây dựng hoặc bổ sung nhiệm vụ cho phù hợp; nhiệm kỳ đầu tiên của các cấp ủy này không nhất thiết phải là 5 năm để nhiệm kỳ đại hội phù hợp với nhiệm kỳ đại hội của tổ chức đảng cấp trên'.
Năm là, bổ sung, sửa đổi việc tính tuổi đảng của đảng viên:
Ðiều 5, Ðiều lệ Ðảng Ðại hội X quy định: 'Tuổi đảng của đảng viên tính từ ngày ghi trong quyết định công nhận đảng viên chính thức'. Qua thực hiện, nhiều cấp ủy và đảng viên cho rằng: Quần chúng ưu tú sau khi được kết nạp vào Ðảng, tuy mới là đảng viên dự bị, nhưng thực chất là người đã đứng trong hàng ngũ của Ðảng và đã phải thực hiện các nhiệm vụ của người đảng viên theo quy định của Ðiều lệ Ðảng, do đó sau khi được công nhận là đảng viên chính thức thì tuổi đảng của đảng viên nên được tính từ khi được kết nạp vào Ðảng. Vì vậy, Ðại hội XI đã quyết định bổ sung, sửa đổi Ðiều 5, Ðiều lệ Ðảng về thời gian tính tuổi đảng của đảng viên như sau: 'Ðảng viên đã được công nhận chính thức thì tuổi đảng của đảng viên tính từ ngày ghi trong quyết định kết nạp'. Tuy nhiên, việc thực hiện nội dung này như thế nào (chỉ thực hiện đối với những đảng viên được kết nạp sau khi Ðại hội XI thông qua Ðiều lệ Ðảng hay thực hiện đối với tất cả đảng viên trong toàn Ðảng) đang còn nhiều ý kiến khác nhau. Do đó, vấn đề này còn phải chờ Quy định của Bộ Chính trị và hướng dẫn của Ban Tổ chức Trung ương về thi hành Ðiều lệ Ðảng.
Sáu là, bổ sung về thẩm quyền kỷ luật đảng viên của cấp ủy tỉnh, thành, huyện, quận và tương đương: Ðiều 36, Ðiều lệ Ðảng Ðại hội X quy định: 'Cấp ủy tỉnh, thành, huyện, quận và tương đương quyết định các hình thức kỷ luật đảng viên; quyết định khiển trách, cảnh cáo cấp ủy viên cùng cấp'. Qua thực tiễn hoạt động cho thấy việc quy định như vậy là chưa thật phù hợp. Vì vậy, Ðại hội XI đã bổ sung, sửa đổi Ðiều 36, Ðiều lệ Ðảng và được thể hiện đầy đủ như sau: 'Cấp ủy tỉnh, thành, huyện, quận và tương đương quyết định các hình thức kỷ luật đảng viên; quyết định khiển trách, cảnh cáo cấp ủy viên các cấp, đảng viên thuộc diện cấp ủy cấp trên quản lý vi phạm phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, sinh hoạt đảng, thực hiện nhiệm vụ đảng viên; quyết định khiển trách, cảnh cáo cấp ủy viên cùng cấp vi phạm nhiệm vụ do cấp ủy giao'.
Bảy là, bổ sung việc giao cho Ban Chấp hành Trung ương quyết định việc chỉ đạo thực hiện thí điểm một số chủ trương mới:
Ðiều 48, Ðiều lệ Ðảng Ðại hội X quy định: 'Chỉ Ðại hội đại biểu toàn quốc mới có quyền sửa đổi Ðiều lệ Ðảng'. Thực tiễn của công tác xây dựng Ðảng cho thấy: Trong một nhiệm kỳ Ðại hội Ðảng toàn quốc, cùng với sự phát triển của công cuộc đổi mới, công tác xây dựng Ðảng cũng nảy sinh nhiều vấn đề mới cần phải xem xét, giải quyết cho phù hợp với thực tiễn, nhưng vấn đề đó lại chưa được quy định trong Ðiều lệ Ðảng. Mặt khác, với trách nhiệm là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Ðảng giữa hai kỳ đại hội, Ban Chấp hành Trung ương phải chuẩn bị những nội dung cần bổ sung, sửa đổi Ðiều lệ Ðảng để trình Ðại hội xem xét, quyết định. Nếu trong những vấn đề mới nảy sinh đó có những vấn đề đang còn có ý kiến khác nhau, chưa tạo được sự thống nhất cao thì cần thiết phải thực hiện thí điểm để Ban Chấp hành Trung ương có đầy đủ cơ sở lý luận và thực tiễn trình ra Ðại hội. Vì vậy, để đáp ứng với yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn đặt ra và tạo sự thống nhất nhận thức trong toàn Ðảng về việc chỉ đạo thí điểm một số chủ trương mới khi chưa được quy định trong Ðiều lệ Ðảng, khoản 2, Ðiều 16, Ðiều lệ Ðảng đã bổ sung thêm nội dung: 'Ban Chấp hành Trung ương căn cứ tình hình thực tế quyết định chỉ đạo thí điểm một số chủ trương mới'.
Tám là, thay đổi tên gọi của Ðảng ủy Quân sự Trung ương: Ðiều lệ Ðảng Ðại hội X quy định: 'Ðảng ủy Quân sự Trung ương (gọi tắt là Quân ủy Trung ương)'. Trong quá trình thảo luận ở đại hội đảng bộ các cấp cũng như ở Ðại hội XI của Ðảng, nhiều đại biểu đại hội đề nghị không nên gọi là Ðảng ủy Quân sự Trung ương (gọi tắt là Quân ủy Trung ương) mà gọi là Quân ủy Trung ương theo tên gọi truyền thống từ những ngày thành lập của Quân đội nhân dân Việt Nam. Vì vậy, Ðại hội đã biểu quyết tán thành đổi tên gọi của Ðảng ủy Quân sự Trung ương thành 'Quân ủy Trung ương'.
Chín là, bổ sung nội dung về sự lãnh đạo của Ðảng, Nhà nước đối với Quân đội, Công an: Ðể bảo đảm vai trò lãnh đạo của Ðảng, quản lý của Nhà nước đối với Quân đội, Công an, khoản 1, Ðiều 25, Ðiều lệ Ðảng đã bổ sung hai nội dung sau: 'Ðảng lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân dân Việt Nam tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt; Sự lãnh đạo của Ðảng được tập trung thống nhất vào Ban Chấp hành Trung ương mà trực tiếp, thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư; Ðảng quyết định những vấn đề cơ bản xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân... Nhà nước thống nhất quản lý đối với Quân đội, Công an và sự nghiệp quốc phòng, an ninh theo quy định của Hiến pháp và pháp luật'.
Mười là, bổ sung nội dung nhằm cụ thể hóa một số chức danh và vai trò chỉ đạo của Ðảng đối với Quân đội: Nhằm bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Ðảng đối với Quân đội, Ðiều 26 và Ðiều 27, Ðiều lệ Ðảng đã bổ sung nội dung nhằm cụ thể hóa một số chức danh và xác định vai trò lãnh đạo của Ðảng trong Quân đội như sau: 'Ðồng chí Tổng Bí thư là Bí thư Quân ủy Trung ương'; 'Ðồng chí bí thư cấp ủy địa phương trực tiếp làm bí thư đảng ủy quân sự cùng cấp'.
Mười một là, bổ sung, sửa đổi về chức năng, nhiệm vụ của đảng đoàn, ban cán sự đảng: Ðiều lệ Ðảng Ðại hội X quy định: Ðảng đoàn, ban cán sự đảng kiểm tra việc chấp hành đường lối, chính sách của Ðảng. Qua thực tế hoạt động của đảng đoàn, ban cán sự đảng trong những năm qua cho thấy: Ðảng đoàn, ban cán sự đảng không có tổ chức bộ máy và cán bộ riêng nên việc thực hiện công tác kiểm tra chấp hành đường lối, chính sách của Ðảng không thực hiện được, chỉ nên quy định lãnh đạo công tác kiểm tra là phù hợp. Vì vậy, Ðiều 42 và Ðiều 43, Ðiều lệ Ðảng được bổ sung, sửa đổi: Ðảng đoàn, ban cán sự đảng lãnh đạo công tác kiểm tra việc chấp hành đường lối, chính sách của Ðảng.
Câu 3: Phân tích làm rõ tại sao sau khi học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội XI của Đảng các tổ chức Đảng phải xây dựng chương trình hành động thực hiện Nghị quyết?
Thứ nhất, về Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011). Trước hết, chúng ta cần nhận thức đúng tầm vóc, vị trí của Cương lĩnh năm 1991, bởi đó là thời kỳ cực kỳ khó khăn của chủ nghĩa xã hội, các thế lực thù địch tập trung tấn công, chống phá một cách quyết liệt nhằm thủ tiêu chủ nghĩa xã hội, thủ tiêu chủ nghĩa Mác-Lênin; đó là thời kỳ của những năm đầu đổi mới, tình hình quốc tế vô cùng phức tạp, tình hình trong nước cũng đang đứng trước vô vàn khó khăn, thử thách, một bộ phận cán bộ, đảng viên tỏ ra hoang mang, dao động. Trong tình thế đó, Cương lĩnh năm 1991 ra đời thể hiện bản lĩnh và tầm cao trí tuệ của Đảng ta, là ngọn cờ tư tưởng của đổi mới, khẳng định mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, góp phần củng cố niềm tin, đoàn kết các tầng lớp nhân dân vững tin và đi theo Đảng. Qua 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, chúng ta đã giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tạo môi trường thuận lợi để đổi mới, đưa đất nước vượt qua khủng hoảng kinh tế - xã hội, tiến hành và đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa nước ta vượt qua tình trạng nước nghèo, kém phát triển; phá được thế bao vây cấm vận của các thế lực thù địch, nâng cao vai trò, uy tín của Đảng ta, đất nước ta, dân tộc ta trên trường quốc tế.
Tuy nhiên, trong thời đại ngày nay bối cảnh thế giới diễn biến phức tạp, khó lường. Chúng ta đang đứng trước âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch và nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; đòi hỏi chúng ta phải không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị, xây dựng khối đoàn kết thống nhất, huy động sức mạnh bên ngoài, kết hợp với phát huy sức mạnh nội lực của đất nước, dân tộc, phải bắt kịp yêu cầu cuộc sống, yêu cầu thời đại; đặc biệt là không phạm sai lầm về đường lối đối nội, đối ngoại, tạo môi trường hòa bình, ổn định để phát triển, ổn định chính trị - xã hội, phát huy sức mạnh toàn dân tộc thì sẽ xây dựng thành công mô hình chủ nghĩa xã hội ở nước ta - đó là điều khẳng định.
- Việc bổ sung, phát triển Cương lĩnh năm 1991 tại Đại hội XI của Đảng - Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đó là sự tiếp tục khẳng định Cương lĩnh 1991, kế thừa những nội dung, giá trị đã được thực tiễn kiểm nghiệm, đồng thời phát triển, bổ sung nhiều nội dung quan trọng với những nhận thức mới phù hợp với thực tiễn Việt Nam và thời đại ngày nay. Với tầm vóc, giá trị thực tiễn như vậy, Cương lĩnh 2011 là ngọn cờ tư tưởng, ngọn cờ chiến đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, tạo sự thống nhất cao trong Đảng, sự đồng thuận cao trong nhân dân, quyết tâm thực hiện mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là: “Xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc” và phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI “Xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa".
- Về đặc trưng và mô hình chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng, Cương lĩnh 1991 nêu 6 đặc trưng, Cương lĩnh 2011 bổ sung 2 đặc trưng:
Đặc trưng thứ nhất là “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đây là đặc trưng mang tính tổng quát nhất, vừa phản ánh mục tiêu tổng quát vừa phản ánh bản chất chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng. Đây là bước phát triển mới trong nhận thức của Đảng ta, Đại hội X xác định đặc trưng này là xây dựng xã hội “Dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”, nhưng đến bổ sung, phát triển Cương lĩnh 2011, cụm từ “dân chủ” được đưa lên trước “công bằng”, là “xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đó là điểm mới so với Cương lĩnh 1991, chúng ta thấy “dân chủ” đã đặt đúng vị trí, đặt trước “công bằng”, vì dân chủ là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Dân chủ là đặc trưng hết sức quan trọng và là bản chất của xã hội xã hội chủ nghĩa, là điều kiện để đảm bảo cho thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội, không có dân chủ thì không thể nói đến công bằng. Đây là quan niệm mới, là ý chí của toàn Đảng, chúng ta cần nhận thức thống nhất trong quá trình quán triệt thực hiện.
Đặc trưng thứ hai được bổ sung là: “Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo”. Đây là sự đề cao vai trò, trách nhiệm của Nhà nước trước nhân dân và khẳng định phương thức lãnh đạo của Đảng. Nghĩa là Đảng lãnh đạo đất nước, lãnh đạo xã hội bằng nhiều phương thức, trong đó quan trọng nhất là Đảng lãnh đạo xã hội thông qua Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Về đặc trưng kinh tế của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng, có sự sửa đổi quan trọng so với cách thể hiện trong Cương lĩnh 1991; trong Cương lĩnh 1991 thể hiện: “Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu”. Còn Cương lĩnh 2011 khẳng định đặc trưng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là “Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp”. So với cách trình bày trong Cương lĩnh 1991 có điểm mới, đó là “quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp”. Cần nhận thức rằng, cách diễn đạt của Cương lĩnh 2011 và Cương lĩnh 1991 là hai cách diễn đạt của một vấn đề chứ không phải hai đặc trưng khác nhau. Đây là sự tiếp tục hoàn thiện nhận thức của Đảng ta về mối tương quan giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Diễn đạt như trên là phù hợp với nguyên lý chủ nghĩa Mác; phù hợp chủ nghĩa duy vật lịch sử là quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại và sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội.
Như vậy, Cương lĩnh 2011 đã xác định mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng có 8 đặc trưng - thể hiện mô hình toàn diện, phản ánh được đặc trưng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, về đối nội, đối ngoại…; phản ánh đầy đủ bản chất của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng.
- Về Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh 2011 khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ Nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản”. Việc bổ sung sự diễn đạt mới về Đảng là thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa giai cấp và dân tộc, thể hiện tính quy luật trong quá trình xây dựng và phát triển của Đảng. Cương lĩnh 2011 tiếp tục khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”.
Trong 8 mối quan hệ lớn được nêu trong Cương lĩnh 2011, tất cả đều quan trọng, chúng ta phải hết sức chú ý xử lý tốt mối quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển. Trong đó, ổn định là tiền đề, đổi mới là động lực, phát triển là mục tiêu. Nếu không đổi mới thì không giữ được ổn định, cũng không thể phát triển, nhưng phải đảm bảo ổn định để đổi mới thành công và làm cơ sở cho phát triển. Phải xử lý tốt mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Chúng ta nói đổi mới toàn diện nhưng không phải cùng một lúc đổi mới tất cả các lĩnh vực. Trên cơ sở thành tựu của đổi mới kinh tế, mới làm rõ yêu cầu, nội dung đổi mới về chính trị. Nếu không đổi mới kinh tế thì không có nguồn lực để phát triển đất nước, nếu không đổi mới chính trị thì kìm hãm sự phát triển của kinh tế. Vấn đề ở đây là không thể nóng vội, đổi mới chính trị phải có bước đi, quyết sách phù hợp, có nguyên tắc. Đổi mới chính trị trước hết là đổi mới phương thức lãnh đạo, đẩy mạnh cải cách hành chính, cải tiến phong cách và lề lối làm việc,... Đổi mới chính trị đến đâu, đổi mới vấn đề gì Đảng ta đều phải cân nhắc, đảm bảo không chệch hướng, không xa rời mục tiêu, lý tưởng của Đảng.
Bên cạnh đó, chúng ta cần nắm vững và giải quyết tốt mối quan hệ giữa kinh tế thị trường với định hướng XHCN, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, giữa mở cửa, hội nhập và giữ vững độc lập tự chủ, mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ. Đặc biệt, trong quá trình giải quyết các mối quan hệ trên không được phiến diện, cực đoan, duy ý chí và đòi hỏi sự nghiên cứu, sáng tạo, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước.
Thứ hai, đối với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020: Cần nắm vững 5 quan điểm phát triển nêu trong Chiến lược để có sự vận dụng trong quá trình tổ chức thực hiện. Đó là: phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược; đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển; phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học, công nghệ ngày càng cao, đồng thời hoàn thiện quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
Đặc biệt, một trong những nội dung quan trọng trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 là việc đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cấu trúc nền kinh tế. Vì sao phải đổi mới mô hình tăng trưởng? Yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng như thế nào? Như chúng ta biết, hạn chế, yếu kém của nền kinh tế nước ta có nguyên nhân chủ yếu của nó là do công tác quản lý, điều hành, nhưng cũng có nguyên nhân từ mô hình tăng trưởng không còn phù hợp. Mô hình tăng trưởng của chúng ta hiện nay là mô hình tăng trưởng theo chiều rộng, tức là tăng trưởng kinh tế bằng cách tăng thêm các nguồn lực, tăng thêm vốn đầu tư, tăng thêm sử dụng các nguồn tài nguyên,… Nếu cứ kéo dài mô hình tăng trưởng này đến một thời gian nào đó chúng ta sẽ cạn kiệt nguồn lực, tài nguyên… và không thể phát triển được nữa. Chính vì thế mà chúng ta phải đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cấu trúc lại nền kinh tế theo hướng chuyển đổi mô hình tăng trưởng chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô, vừa chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững. Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học công nghệ ngày càng cao…
Thứ ba, đối với Báo cáo chính trị, cần nghiên cứu nắm chắc 6 thành tựu, 6 hạn chế, khuyết điểm, nguyên nhân và kinh nghiệm qua 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội X; bối cảnh tình hình quốc tế, trong nước. Nắm vững mục tiêu tổng quát 5 năm tới, là: “Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; phát triển kinh tế nhanh, bền vững; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; giữ vững ổn định chính trị xã hội, tăng cường hoạt động đối ngoại; bảo vệ vững chắc độc lập, tự chủ, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Trọng tâm là tập trung nghiên cứu nắm chắc 5 nhiệm vụ chủ yếu và 10 nhóm giải pháp được nêu trong Báo cáo chính trị để vận dụng xây dựng chương trình hành động của các cấp ủy, quyết tâm thực hiện thắng lợi mục tiêu mà Nghị quyết Đại hội XI của Đảng và nghị quyết đại hội đảng bộ các cấp đã đề ra trong 5 năm tới.
Thứ tư, đối với Điều lệ Đảng bổ sung, sửa đổi, tinh thần chung là cần nắm chắc các điểm mới bổ sung, sửa đổi trong Điều lệ. Cụ thể: về tiêu chuẩn đảng viên, quy định về những điều đảng viên không được làm, về tính tuổi đảng viên, về thành lập tổ chức cơ sở đảng, về nhiệm kỳ đại hội đảng ở những nơi mới thành lập, chia tách, hợp nhất, sát nhập trong nhiệm kỳ, quy định về thí điểm một số chủ trương mới, về chức năng, nhiệm vụ của ban cán sự đảng, đảng đoàn; thẩm quyền kỷ luật đảng viên; về Đảng lãnh đạo Quân đội nhân dân và Công an nhân dân; cụ thể hóa một số chức danh và vai trò chỉ đạo của Đảng đối với Quân đội; về tên gọi của Đảng ủy Quân sự Trung ương. Yêu cầu đặt ra là việc phổ biến, truyền đạt phải chính xác.
Câu 4: Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội XI và Đại hội Đảng bộ các cấp có các nhiệm vụ, giải pháp sau:
Báo cáo Chính trị tại Đại hội XI chỉ rõ 8 nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng.
1. Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị
2- Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận
3- Rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân
4- Tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị
5- Kiện toàn tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đảng viên
6- Đổi mới công tác cán bộ, coi trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ
7- Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát
8- Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
* Những nhiệm vụ trọng tâm cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo:
Căn cứ vào tình hình thực tế, yêu cầu phát triển đất nước trong 5 năm tới, Nghị quyết chỉ rõ: Trong nhiệm kỳ Đại hội XI, cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong thực hiện những nhiệm vụ trọng tâm sau :
(1) Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
(2) Cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính liên quan đến tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp, sinh hoạt của nhân dân.
(3) Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập quốc tế của đất nước.
(4) Xây dựng đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, nhất là hệ thống giao thông, yếu tố đang gây ách tắc, cản trở sự phát triển kinh tế, gây bức xúc trong nhân dân.
(5) Đổi mới quan hệ phân phối, chính sách tiền lương, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động; khắc phục tình trạng bất hợp lý và tác động tiêu cực của quan hệ phân phối, chính sách tiền lương, thu nhập hiện nay.
(6) Tập trung giải quyết một số vấn đề xã hội bức xúc (suy thoái đạo đức, lối sống, tệ nạn xã hội, trật tự, kỷ cương xã hội).
(7) Đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí để thực sự ngăn chặn, đẩy lùi được tệ nạn này.
Nghị quyết Đại hội XI chỉ rõ: Đất nước ta đã vượt qua những khó khăn, thách thức to lớn và đang vững bước đi lên. Tình hình thế giới thay đổi nhanh chóng, tạo cho nước ta nhiều thời cơ nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức. Đại hội XI của Đảng khẳng định quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân ta tận dụng tốt thời cơ, vượt qua thách thức, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, phát triển đất nước nhanh, bền vững, thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội./.
Số lượt Thanks trong bài viết:Message reputation : 100% (1 vote)
Sun Aug 28, 2011 4:39 pm
Admin
Danh vọng: 147%/1000%
Tài năng:32%/100%
» Birthday : 26/10/1991
» posts : 147
» Points : 24637
» Thanks : 14
» Ngày gia nhập : 06/01/2011
» Age : 32
» Đến từ : KoreA
» Hiện giờ đang:
Tiêu đề: Re: BÀI THU HOẠCH NHẬN THỨC VỀ NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XI CỦA ĐẢNG
Cái này bạn nào chưa có bài thu hoạch chính trị đầu năm thì đem về tham khảo nhé.
Chữ ký của thành viên
Mon Aug 29, 2011 10:46 am
Admin
Danh vọng: 147%/1000%
Tài năng:32%/100%
» Birthday : 26/10/1991
» posts : 147
» Points : 24637
» Thanks : 14
» Ngày gia nhập : 06/01/2011
» Age : 32
» Đến từ : KoreA
» Hiện giờ đang:
Tiêu đề: Re: BÀI THU HOẠCH NHẬN THỨC VỀ NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XI CỦA ĐẢNG